Nếu bạn có thời gian hãy mua cuốn “Warren Buffett làm
giàu” -Robert. P Miles dể khám phá bạn
thuộc kiểu nhà đầu tư nào và từ đó hình thành triết lý đầu tư của riêng mình,
hiểu rõ những gì bạn sở hữu đầu tư vào các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thay
vì các doanh ngiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, ngoài ra bạn có thể học
được những sai lầm của Warren Buffett. Triết lý đầu tư của Warren cũng ảnh hưởng
nhiều từ người thầy Benjamin Graham, ông
đã học cách học thành người giỏi nhất từ những người giỏi nhất trong đó
có người thầy của mình.
Warren Buffett ( 1962 ) and Benjamin Graham ( 1947 ) | . |
Benjamin Graham là nhà đầu tư thông thái, người được
xem là Bố già trong lĩnh vực phân tích chứng khoán và đầu tư giá trị. Ý tưởng
và phương pháp đầu tư của ông được trình bày rõ ràng trong cuốn sách “Security
analysis - Phân tích chứng khoán” (1934) và cuốn “The intelligent - nhà đầu tư
thông minh” (1949), là hai trong số những ấn phẩm nổi tiếng nhất của ông. Những
ấn phẩm này thường được xem là sách-phải-đọc đối với bất cứ nhà đầu tư nào.
Bài viết cô đọng lại những nguyên tắc đầu tư chính của
Graham, đồng thời giới thiệu một số điểm nổi trội trong phong cách đầu tư của
Warren Buffett giúp bạn có một khởi đầu
tốt đẹp với các quyết định đầu tư.
Nguyên tắc 1: Luôn đầu tư với lợi nhuận an toàn
Lợi nhuận an toàn là nguyên tắc mua chứng khoán với giá
giảm đáng kể tới mức giá trị thực, nó được hiểu là không chỉ đem đến những cơ hội
lãi lớn mà còn hạn chế tối đa nguy cơ giảm giá trong đầu tư. Ví dụ đơn giản,
Graham muốn mua tài sản có giá trị 1 đô la nhưng trả giá 0.5 đô la. Ông ấy làm
điều này rất tốt.
Đối với Graham những tài sản này có thể đáng giá bởi tiềm
năng sinh lời ổn định hoặc đơn giản vì chúng có giá trị thanh khoản. Ví dụ như
thật không bình thường nếu Graham đầu tư vào cổ phiếu nào mà tài sản có thể
thanh khoản được trên bảng cân đối kế toán (giá trị thực của các khoản nợ) có
giá cao hơn mức chấp nhận của thị trường (theo Graham gọi tên là thu nhập
ròng). Điều này có nghĩa Graham đang mua một thứ mà chẳng có lợi chút nào. Đây
là chiến lược đầu tư điển hình trong số nhiều chiến lược của Graham.
Khái niệm này rất quan trọng để các nhà đầu tư lưu ý vì
đầu tư giá trị đem đến lợi nhuận thực chất một khi thị trường không thể tránh
khỏi việc tái định giá làm tăng giá cổ phiếu tới mức hợp lý. Nó cũng giúp bảo vệ
trong trường hợp thị trường đi xuống nếu mọi thứ diễn ra không theo kế hoạch và
tình hình kinh doanh bấp bênh. Khoản lợi nhuận an toàn từ việc mua lại công ty
được định giá thấp hơn giá trị của nó rất nhiều là điểm trung tâm trong những
thương vụ thành công của Graham. Khi lựa chọn kỹ lưỡng, Graham nhận thấy hiếm
khi xuất hiện sự sụt giá thêm nữa ở những cổ phiếu có giá trị thấp này. Khi nhiều
sinh viên của Graham thành công với những chiến lược của riêng mình thì họ vẫn
đều cùng chia sẻ quan điểm chính là “lợi nhuận an toàn’.
Nguyên tắc 2: Đương đầu với sự bất ổn và kiếm lợi từ đó
Đầu tư chứng khoán có nghĩa là đối phó với sự bất ổn.
Thay vì tháo chạy lúc thị trường căng thẳng thì nhà đầu tư thông minh lại chào
đón xu hướng suy giảm như cơ hội đầu tư tuyệt vời. Graham minh họa điều này bằng
hình ảnh tương tự ”Ngài Thị trường”, đối tác kinh doanh tưởng tượng của mọi nhà
đầu tư. Hàng ngày ‘Ngài thị trường” chào giá các nhà đầu tư hoặc để mua hoặc để
bán cổ phần kinh doanh. Lúc thì thị trường bị quá khích bởi viễn cảnh kinh
doanh và đưa ra mức giá quá cao, khi thì thất vọng bởi tương lai và đưa ra mức
giá quá thấp.
Bởi thị trường chứng khoán có những cảm xúc tương tự
nên bài học ở đây là bạn không nên để những quan điểm của “Thị trường” sai khiến
những cảm xúc của riêng bạn, hoặc tệ hơn là định hướng cho quyết định đầu tư của
bạn. Thay vì thế, bạn nên định hình phong cách tiên lượng về giá trị của riêng
mình trên cơ sở kiểm chứng sự kiện một cách chắc chắn và hợp lý. Hơn nữa bạn chỉ
nên mua khi giá được chào có ý nghĩa và bán khi được giá. Ở một khía cạnh khác,
thị trường đôi khi chao đảo bất thường, nhưng thay vì sợ hãi trước sự bất ổn bạn
hãy sử dụng nó như một cơ hội để mua được giá hời và bán ra khi cổ phần của bạn
được giá cao hơn giá trị thực.
Đây là hai chiến thuật Graham đưa ra nhằm hạn chế tác động
tiêu cực từ tính bất ổn của thị trường:
1. Bình ổn giá trị đô la
Bình ổn giá trị đô la được thực hiện bằng cách định kỳ
mua cổ phiếu tương đương với một giá trị đô la nhất định. Nó giúp duy trì ổn định
giá, có nghĩa nhà đầu tư không phải quan tâm đến việc mua nó hoàn toàn ở vị trí
dẫn đầu thị trường hay không. Bình ổn giá trị đô la là một phương thức dành cho
nhà đầu tư thụ động và nó làm giảm bớt gánh nặng trách nhiệm trong việc chọn mua cổ phiếu với giá bao nhiêu và khi nào cho
đúng.
2. Đầu tư cả cổ phiếu và trái phiếu
Graham gợi ý nhà đầu tư nên phân bổ danh mục đầu tư cân
đối giữa cổ phiếu và trái phiếu như một cách để bảo toàn vốn khi thị trường suy
thoái thì vẫn duy trì được thu nhập từ trái phiếu. Nên nhớ triết lý của Graham
là trên hết phải bảo toàn vốn sau đó mới làm cho nó tăng trưởng. Ông đưa ra mức
25% – 75% đầu tư vào trái phiếu tùy tình hình biến đổi thị trường. Chiến thuật
này có điểm lợi là giữ cho nhà đầu tư tránh được cảm giác khó chịu dẫn đến sự
cám dỗ tham gia vào các thương vụ bất lợi.
Nguyên tắc 3: Tự biết mình thuộc loại nhà đầu tư nào
Graham khuyên các nhà đầu tư phải biết rõ cá tính đầu
tư riêng của mình. Để minh họa cho điều này, ông phân biệt rõ những nhóm nhà đầu
tư khác nhau tham gia trên thị trường. Nhóm chủ động và nhóm bị động. Graham đề
cập đến khái niệm chủ động cho những nhà đầu tư tấn công và bị động cho nhưng
nhà đầu tư phòng thủ. Bạn chỉ có duy nhất một trong hai lựa chọn: hoặc là hãy
cam kết nghiêm túc bằng thời gian và sức lực của mình để trở thành nhà đầu tư
có hạng, biết cân bằng giữa lượng và chất của khảo sát thực tế với lãi suất
mong đợi. Nếu đây không phải là thế mạnh của bạn hãy bằng lòng chấp nhận mức lời
bị động và thấp hơn nhưng với thời gian và công sức rất ít. Graham thay đổi
quan niệm có tính hàn lâm từ trước tới nay là “rủi ro = lợi nhuận”. Đối với ông
thì “công sức = lợi nhuận” mới đúng. Bạn càng bỏ ra nhiều công sức trong việc đầu
tư bạn càng kiếm được nhiều lợi nhuận.
Nếu bạn không có đủ thời gian và sự nghiên cứu nghiêm
túc một cách chất lượng danh mục đầu tư của bạn thì hãy hãy đầu tư vào một danh
mục được lựa chọn tốt. Graham cho rằng nhà đầu tư thụ động có thể đạt được lợi
nhuận trung bình bằng cách đơn giản mua 30 cổ phiếu công nghiệp Dow Jones với
lượng trung bình như nhau. Cả Graham và Buffett đều cho rằng có thể đạt được lợi
nhuận trung bình, ví dụ giống như lợi nhuận của S&P 500 – thì đó là một
thành quả thực sự hơn là dường như có thể. Theo Graham, sự ảo tưởng của nhiều
người mua cổ phần là ở chỗ nếu quá dễ để có được khoản lợi nhuận trung bình mà
chẳng mất hoặc bỏ ra một chút công sức (thông qua danh mục đầu tư) thì bỏ ra
thêm một chút công sức chắc sẽ mang lại lợi nhuận lớn hơn một chút. Thực tế thì
hầu hết những người cố gắng làm việc này đến cùng đã làm cho lợi nhuận kém hơn
nhiều mức trung bình.
Theo quan điểm hiện đại nhà đầu tư phòng thủ thì đầu tư
vào danh mục có cả cổ phiếu và trái phiếu. Về bản chất họ sở hữu toàn bộ thị
trường, hưởng lợi từ khu vực đang hoạt động tốt nhất mà không cần cố gắng dự
đoán từ trước. Làm như vậy, một nhà đầu tư hầu như được bảo đảm có lợi nhuận của
thị trường và tránh được điều tồi tệ hơn mức trung bình bằng cách để kết quả tổng
thể thị trường tự kiểm soát lợi nhuận dài hạn. Theo Graham, việc bắt nhịp thị
trường nói thì dễ hơn làm, và nhiều nhà đầu tư thấy mình không bắt nhịp được thị
trường.
Người đầu cơ và Nhà đầu tư
Không phải tất thảy người chơi chứng khoán đều là nhà đầu
tư. Graham tin rằng đánh giá phê phán ai còn xác định đâu là nhà đầu cơ hay nhà
đầu tư. Sự khác nhau đơn giản là: một nhà đầu tư coi cổ phiếu như một phần công
việc kinh doanh và người nắm giữ cổ phiếu là người chủ công việc kinh doanh đó,
trong khi quan điểm của nhà đầu cơ xem đó như là trò chơi với những tờ giấy đắt
tiền, không quan tâm đến giá trị thực. Đối với nhà đầu cơ, giá trị chỉ được xác
định bởi giá do người nào trả giá cho tài sản đó. Graham chỉ ra rằng đầu cơ hay
đầu tư cũng đều thông minh – miễn sao bạn chắc chắn hiểu chính mình sẽ làm tốt ở
loại nào.
Phong cách đầu tư của Warren Buffett
Những luận điểm cơ bản của Graham là bất hủ, là hết sức
cần thiết cho sự thành công lâu dài. Ông mua cổ phiếu với quan niệm mua dưới mức
giá trị của doanh nghiệp và biến nó trở thành khoa học trong khi hầu hết tất cả
các nhà đầu tư có quan điểm chơi chứng khoán đều dựa trên sự suy đoán. Graham
là bậc thầy vĩ đại đầu tiên về đầu tư, chứng tỏ những gì trong dòng máu tri thức
của dòng họ tự thức phát triển. Nếu bạn muốn cải thiện kỹ năng đầu tư của mình,
chẳng hại gì khi học những điều tuyệt vời nhất; Graham tiếp tục chứng minh giá
trị học thuyết thông qua những môn đồ của ông, ví như Warren Buffett, người đã
tao ra một tập quán cho nhịp điệu thị trường.
Trong ấn phẩm cuối cùng về Warren Buffett “Phong cách đầu tư của Warren Buffett”
(2004), Robert Hagstrom đã minh họa phương pháp đầu tư của nhà đầu tư giá trị lỗi
lạc nhất thế giới. Nếu bạn muốn lựa chọn một phong cách đầu tư giá trị cổ điển,
hẳn bạn cũng biết Warren Buffett là hình mẫu có vai trò lớn. Ngay từ ngày đầu lập
nghiệp, Buffett đã nói “trong tôi có đến 85% là Benjamin Graham”. Graham là cha
đẻ của đầu tư giá trị. Ông đã đưa ra khái niệm về giá trị nội tại – là giá trị
cơ bản hợp lý của cổ phiếu dựa trên khả năng sinh lời của nó trong tương lai.
Có một số thứ chẳng có giá trị gì theo diễn giải về đầu
tư giá trị của Warren Buffett. Thứ nhất, giống như rất nhiều công thức cho sự
thành công, chúng thoạt nhìn khá đơn giản nhưng không có nghĩa là dễ dàng.
Bufett sử dụng hàng tá “nguyên lý đầu tư” hay sự tính toán then chốt. Một trong
số đó yêu cầu ban quản lý phải trung thực với các cổ đông. Điều yêu cầu này đơn
giản và dễ hiểu nhưng chẳng dễ trả lời chút nào. Có những ví dụ thú vị về mâu
thuẫn này: khái niệm thì phức tạp nhưng cũng đơn giản. Ở khía cạnh này, giá trị
kinh tế gia tăng (EVA) là một ví dụ thích hợp. Sự tính toán đầy đủ của EVA
không dễ gì lĩnh hội và sự giải thích về chiều hướng của EVA thì phức tạp.
Nhưng một khi bạn xem EVA chỉ là một danh mục dài các biến số và khi được trang
bị bằng công thức thì nó trở nên dễ dàng để tính toán EVA cho bất kỳ công ty
nào. Vì thế cho nên những nguyên lý của Buffett nghe có vẻ lời nói sáo bởi chúng
dễ hiểu nhưng lại có thể rất khó triển khai và ngược lại.
Thứ hai, cuốn “Cách thức của Warren Buffett” có thể được
xem như phong cách truyền thống căn bản trong đầu tư mà rất dễ thích nghi. Thậm
chí tác giả của cuốn sách bán chạy nhất cũng chính là môn đồ của phái thực
hành, hay người theo triết lý Buffett đôi lúc điều chỉnh cách tiếp cận riêng
trong suốt quá trình đầu tư kể cả cổ phiếu công nghệ cao, lĩnh vực dễ thấy
Buffett tiếp tục tránh xa. Một trong những khía cạnh hấp dẫn của trường phái
Buffett là tính linh hoạt bên cạnh những thành công phi thường của nó. Nếu là một
tôn giáo thì nó không mang tính giáo điều mà thay vào đó là sự tự phản ánh và
thích ứng qua thời gian. Đây là tín hiệu tốt. Nhà kinh doanh trong ngày có thể
yêu cầu những nguyên tắc cứng rắn và bám vào công thức (có nghĩa là một phương
tiện kiểm soát tình cảm), nhưng tôi nghĩ chúng ta có thể chắc chắn nói rằng những
nhà đầu tư thành công không gì hơn là cần phải có ý thức thích nghi với những
trạng thái tinh thần tương ứng với thời gian khác nhau.
Theo Hagstrom, Buffett có mười hai nguyên lý đầu tư.
Chúng được phân thành các nhóm gồm kinh doanh, quản lý, thước đo tài chính và
giá trị.
Kinh doanh
Buffett tự giới hạn bản thân một cách cứng rắn không
tham gia vào “cuộc đua tranh giành” của thương vụ mà ông có thể phân tích và hiểu
rõ. Như Hagstrom viết: thành công trong đầu tư không phải vấn đề ở chỗ bạn biết
được bao nhiêu mà là bạn thực tế đến đâu trong việc xác định được cái mà bạn
không biết. Buffett xem sự hiểu biết sâu sắc về vận hành kinh doanh này là điều
kiện tiên quyết đối với dự báo khả thi của hoạt động kinh doanh trong tương
lai; có nghĩa là nếu bạn không hiểu về kinh doanh thì làm sao bạn có thể tiên
đoán được hoạt động? Mỗi nguyên lý kinh doanh của Buffett đều hỗ trợ cho mục
tiêu xây dựng nên đề án lớn: Đầu tiên hãy nhớ rằng bạn đang phân tích việc kinh
doanh không phải là thị trường hay nền kinh tế hay sự ủy mị của nhà đầu tư. Thứ
hai là kiên định trong việc tìm kiếm lịch sử hoạt động bởi nó sẽ giúp cải thiện
năng lực của bạn. Và thứ ba là phải biết chắc thương vụ có triển vọng về lâu
dài hay không.
Quản lý
Ba nguyên tắc quản lý của Buffett có liên quan đến việc
đánh giá chất lượng quản lý. Có lẽ đây là tác nghiệp phân tích khó nhất của nhà
đầu tư. Buffett đòi hỏi “quản lý có hợp lý không?” Cụ thể quản lý sẽ là khôn
ngoan khi nó thỏa mãn yêu cầu tái đầu tư lợi nhuận hoặc chia lợi tức của cổ
đông. Đây là câu hỏi sâu sắc. Hầu hết các khảo sát cho dù theo nhóm hay bình
quân đều cho thấy có tính lịch sử rằng quản lý có xu hướng trở nên tham lam và
giữ lại lợi nhuận càng nhiều càng tốt vì theo lẽ tự nhiên họ có xu hướng xây dựng
đế chế và tìm kiếm một vị thế hơn là sử dụng dòng vốn theo cách tối đa hóa giá
trị của cổ đông. Một nguyên tắc khác đòi hỏi quản lý phải trung thực. Họ có chấp
nhận sai lầm không?
Và nguyên tắc quản lý cuối cùng đòi hỏi rằng: quản lý
có chịu đựng được những mệnh lệnh hành chính không? Nguyên lý này là quan trọng
trong phạm vị rộng, nó bao gồm cả việc tìm kiếm ban quản lý say mê hành động và
chống lại việc mù quáng sao chép chiến thuật và chiến lược của đối thủ cạnh
tranh. Nếu đọc cuốn sách, nguyên tắc đặc thù này có giá trị một cách khác thường.
Nó đòi hỏi sự suy ngẫm và là một trong những điều quan trọng nhất (ví dụ: việc
đầu tiên tham gia thị trường, một công ty phải xác định đâu là ranh giới giữa
việc sao chép một cách mù quáng chiến thuật của đối thủ cạnh tranh với việc đưa
ra một chiến thuật vượt trội?)
Thước đo tài chính
Nguyên tắc tài chính không mấy phức tạp. Buffett nhìn
vào lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu. Hầu hết các sinh viên tài chính đều
hiểu rằng ROE có thể bị nhiễu bởi tỷ số nợ (là tỷ số giữa tổng nợ với vốn chủ sở
hữu), cho nên về lý thuyết chỉ số này còn thấp hơn chỉ số tỷ số lợi nhuận trên
vốn đầu tư (ROC) theo một số phương diện. ROC theo tôi có nghĩa là giống như lợi
nhuận trên tổng tài sản (ROA) hay lợi nhuận trên vốn vay (ROCE) mà ở đó tử số
là lợi nhuận được tạo ra từ tất cả các nguồn vốn được cung cấp và mẫu số bao gồm
cả vốn chủ sở hữu và vốn vay. Dĩ nhiên, Buffett hiểu rằng thay vì loại bỏ riêng
các doanh nghiệp mang nợ thì tốt hơn là xem xét đến một mức nợ thấp hợp lý. Ông
cũng tìm kiếm mức lợi nhuận cao ở mức hợp lý tự nhiên.
Hai nguyên tắc tài chính cuối cùng đều có chung cơ sở
lý thuyết từ khái niệm Giá trị kinh tế gia tăng. Đầu tiên Buffett xem xét đến
cái mà ông gọi là “thu nhập của chủ sở hữu”. Về thực chất đây là thu nhập sẵn
có của các cổ đông, về tính kỹ thuật thì nó không liên quan tới thu nhập từ cổ
phần. Theo Buffett, nó được định nghĩa là lãi ròng (Net income) cộng thêm phần
giá trị khấu hao và phần nợ trả dần (nghĩa là phần giá trị không bao gồm khoản
phí liên quan đến tiền) (D&A) trừ đi chi phí vốn đầu tư dài hạn (CAPX) trừ
đi chi phí vốn phát sinh cho nhu cầu hoạt động (charge in W/C). Tóm lại: lãi
ròng + D&A – CAPX – (charge in W/C). Người theo chủ nghĩa thuần túy sẽ phản
đối những điều chỉnh chi tiết nhưng biểu thức này gần với khái niệm EVA trước
khi bạn trừ đi phần chi trả cổ tức cho cổ đông. Về cơ bản, với khái niệm “thu
nhập chủ sở hữu”, Buffett chỉ ra năng lực công ty trong việc điều hành đồng vốn
của cổ đông cũng chính là giới chủ. Nguyên tắc cuối cùng được gọi là “Học thuyết
một đồng đô la” (one-dollar premise). Giá trị thị trường trên một đô la được
chuyển nhượng vào mỗi đô la thu nhập được giữ lại là gì? Thước đo này rất giống
với khái niệm Giá trị thị trường gia tăng (MVA), tỷ số giá trị thị trường trên
vốn đầu tư.
Giá trị
Nhóm nguyên tắc cuối cùng là Giá trị, theo đó Buffett
thiết lập cách làm dựa trên sự dự đoán giá trị thực của một công ty. Một đồng
nghiệp kết luận quá trình liên quan mật thiết thiết này như “toán học liên kết”.
Buffett dự đoán thu nhập chủ sở hữu trong tương lai sau đó chiết khấu trở lại tới
giá trị hiện tại. Nên nhớ rằng nếu bạn áp dụng nguyên tắc khác, sự dự đoán thu
nhập tương lai – theo định nghĩa – được thực hiện dễ hơn thông thường. Ví dụ
như những khoản thu nhập không đổi định kỳ thì dễ dự đoán hơn.
Buffett cũng đưa ra khái niệm “rào chắn - Moat”, cái được
nổi lên như một hệ quả trở thành tập quán thành công trên Morningstar của những
công ty được yêu thích nhờ có “rào chắn kinh tế” (economic moat). Rào chắn là
“cái đem lại cho công ty một lợi thế rõ rệt hơn đối thủ khác và bảo vệ nó trước
những sự tấn công bất ngờ từ sự cạnh tranh”. Một chút ít tính lý thuyết dị giáo
có lẽ chỉ xảy ra với nhà hiền triết từ Omaha, ông khấu trừ từ thu nhập được dự
tính tới mức không có tỷ lệ rủi ro. Ông thực hiện bằng cách kiên định với
nguyên tắc “lợi nhuận an toàn – margin of safety” trong khi áp dụng thận trọng
những nguyên tắc khác với hàm ý giảm tới mức tối thiểu rủi ro chứ không có
nghĩa thực sự loại bỏ được rủi ro. (Hãy tham khảo công ty nào mà Warren Buffett đang mua và bán? Hãy tham
gia vào Coattail Investor, một sản phẩm đăng ký theo chân một số nhà đầu tư tốt
nhất thế giới)
Nguyên lý của Buffett tạo thành nền tảng trong đầu tư
giá trị, nó có cơ chế mở cho sự thích nghi và diễn giải lại về sau. Nó là một
câu hỏi mở tới mức những nguyên tắc này đòi hỏi sự bổ sung bằng tri thức trong
tương lai, nơi những quá trình lịch sử diễn ra tương ứng khó tìm thấy hơn, yếu
tố vô hình đóng một vai trò quan trọng hơn trong giá trị quyền kinh doanh và sự
không rõ ràng về ranh giới giữa các ngành công nghiệp làm cho sự phân tích kinh
doanh càng khó khăn hơn.
Chúc các Freerunricher có các quyết định đầu tư đúng đắn.
Nguồn : pace.edu.vn; BWPortal
1 Nhận xét
Những chia sẻ rất bổ ích cho các bạn khởi nghiệp làm giàu
Trả lờiXóa